Một ngôi nhà xanh hai tầng,
một gác xép, một khu
vườn, một nhà xe và rặng
cây ngăn cách nhà hàng
xóm. Người ta gọi là ngôi
nhà xanh vì những cánh cửa sơn xanh. Ông và Baoman ở
đây đã nhiều năm, đã sơn đi
sơn lại cửa nhiều lần đến
mức tường đá cũng có màu
xanh nhạt. Rặng cây cũng
xanh, và những tấm màn cũng xanh. Một ngôi nhà
đẹp, vì một mối tình đã
năm mươi năm, từ năm
1941. Mácta và Giuliút
Baoman không có con nhưng
hạnh phúc. Giulíut nguyên giám đốc ngân hàng, nghỉ
hưu và Macta làm bánh
nhân anh đào. Họ nghe đài,
đôi khi cũng cùng nhảy một
điệu van cũ thành Viên
hoặc một bài tăng gô Achentina. Trong khu nhà ở
ngoại ô Đenve này, dưới
chân những ngọn núi đá, vợ
chồng Baoman được nhiều
người biết, được ngưỡng
mộ. Họ sống thật hạnh phúc nên cũng vui khi thấy
học khoác vai nhau cùng
nhau đi dạo thanh thản.
Giulíut bảy mươi ba tuổi,
Macta bảy mươi hai. Macta
bước xuống thang, đôi chân còn nhanh nhẹn. Bà vừa bận
quần áo để đi dạo chơi và
gọi: - Giulíut, ông xong
chưa? - Tôi đã chờ bà rồi
đây... Macta Baoman cất
tiếng cười vui, bỗng Giulíut nghe chuyển thành tiếng
kêu. Rồi một tiếng ngã lăn,
một tiếng kêu nữa và im
bặt. Ông vội chạy vào
phòng, thấy vợ ông nằm dài
trên nền, thở hổn hển, mặt nhăn nhó đau đớn... -
Macta, có việc gì xảy ra
thế? - Tôi ngã từ thang
gác... Lạy Chúa, tôi có cảm
giác chân tôi bị hất lên...
như có người không cho tôi đặt chân xuống đất... Ông
Giulíut, tôi đau lắm. Ông
Baoman gọi hàng xóm đến
cứu. Ông hơi sợ, Macta chắc
chắn bị gãy chân, cong
người lại một cách kỳ lạ. Hàng xóm, một đôi vợ
chồng trẻ hơn gọi xe cấp
cứu và ổn định tinh thần
ông già. - Thôi nào, ông
Baoman... một chân gãy thì
có sao... - Họ sẽ đưa bà ấy đi bệnh viện, ông bà không
biết chứ. Bà ấy không bao
giờ rời tôi... và tuổi ấy mà
bị gãy chân... Bác sỹ thì đỡ
lo hơn. - Một chân gãy, dù
ở tuổi bà ấy, cũng giải quyết được thôi, ông
Baoman, vợ ông có sức
khoẻ. Thế là ông Baoman
đưa bà vợ đi bệnh viện,
chiều về buồn bã, cô đơn
đến nỗi ông bà hàng xóm thương hại. - Ông sang nhà
tôi ăn tối với chúng tôi... đỡ
cô đơn. - Bà ấy phải nằm
lại bệnh viện mười lăm
ngày... - Ông cứ ăn bên
chúng tôi trong mười lăm ngày. Giulíut Baoman biết
ơn, nhận lời. Và tám ngày
tiếp đó cứ đúng bảy giờ,
ông sang ăn tối. Ngày thứ
chín, ông sang chậm; bà
hàng xóm lo ngại mất nửa tiếng. - Để tôi sang xem
ông ấy đang làm gì. Chồng
bà nhún vai. - Ông ấy ở
bệnh viện về chậm, hoặc
đang ngủ... - Ông ấy không
hay chậm giờ. Tôi sang xem. Bà choàng chiếc áo mưa,thắt khăn quàng cổ và đi
ra trong gió lạnh mùa thu.
Đi qua bãi cỏ cách nhà bà
với nhà Baoman, bà hơi run
rẩy. Không có ánh đèn, cửa đóng. Bà đứng dưới mái
cổng nhìn vào nhà xe, thấy
có xe, như vậy là Giulíut có
ở nhà... Trong khu này người
ta không đi bộ ra ngoài,
nhất là buổi tối. Thành phố và hàng quán ở cách đó
hơn sáu cây số. Một số
quán hiếm hoi thì giờ này
đã đóng cửa. Bà bấm chuông
không có trả lời, ngẩng đầu
lên nhìn cửa sổ tầng hai... Hình như một tấm màn lau
động, nhưng đây là do được
chiếu sáng; một chiếc xe
vừa chạy qua hắt một
luồng ánh sáng vào ngôi
nhà rộng. Bà hàng xóm đánh trống ngực, không biết vì
sao. Ngôi nhà thường ngày
dễ mến, êm dịu với mọi
màu xanh, tối nay giống
như một ngôi nhà có ma.
Trống trải, sầu thảm, hung gở. Bà đi một vòng nhìn
xem các cửa sổ khác. Tất
cả đều đóng kín, chỉ những
cánh bên ngoài không khép.
Cửa ra vào bếp và phòng
khách gần khu vườn cũng vậy. Tất cả đều đóng. Một
chiếc xe khác đi qua, chiếu
sáng vào cửa sổ. Bà lợi
dụng ánh đèn xe ngó vào
khe hở ở phòng khách. Một
tiếng kêu sợ hãi mắc trong họng. Bà đã thấy ông
Baoman nằm dài trên sàn,
bất động, trong tư thế
trông thật đáng sợ... Bà
chạy, chạy dưới trời mưa
bụi nhớp nháp. Bà có cảm giác ông Baoman đã chết.
Bà biết vậy. Một thứ linh
tính... Mười phút sau khi
hàng xóm báo tin, đội
trưởng cảnh sát Đon
Carudơ cùng hai nhân viên vào ngôi nhà xanh. Đon
Carudơ cao lớn, một loại
chim có cái nhìn sắc xảo,
giọng nói nghiêm khắc. Quỳ
xuống bên cạnh người
Giulíut, ông càu nhàu: - Nói với bác sỹ không vội, ông
già chết được một lúc rồi.
Giulíut mặc quần nhung và
áo trong nhà. Tay phải ông
cầm một khẩu súng ngắn,
một mảng máu bắt đầu đông lại phía sau đầu. Đon
Carudơ vẫn lẩm bẩm: - Ông
già không kịp bắn, khốn
khổ... này, anh bạn tìm cho
tôi cái gì đó nặng gây ra
vết thương này... Rồi Đon Carudơ đi quanh nhà trong
lúc hai người của ông lục lọi
cẩn thận. Ông cũng có một
cảm giác lạ. - Bà hàng xóm
này... bà nói cửa đóng bên
trong cả à? - Vâng, trừ cánh bên ngoài. - Như vậy
là ông già bị giết khi trời
còn sáng. Điều tôi băn
khoăn là kẻ sát nhân. Hoặc
hắn còn ở trong nhà, hoặc
có chìa khoá. - Chẳng ai có chìa khoá. Chúng tôi cũng
không. - Thế tên kia đóng
tất cả bên trong bằng cách
nào? Đon Carudơ nhìn ngó,
kiểm tra... làm ông bà hàng
xóm sợ. - Ông nghĩ trong lúc này hắn ta đang ở trong
nhà?... - Nếu có, chúng ta
sẽ tìm ra... Một nhân viên
bước ra: - Thủ trưởng,
chúng tôi tìm được cái này
trên tủ gần lò sưởi ở phòng khách. "Cái này" là một sắt
thọc lửa to lớn, đẫm máu.
Một mảng da và một số
tóc còn dính ở đó. Đon
Carudơ lại quỳ xuống quan
sát vết thương rồi lục túi ông già, lấy ra chiếc ví, tiền
nong. ở tay trái ông già còn
đeo đồng hồ, chiếc đồng hồ
có giá các nhân viên tặng
lúc về hưu. Như vậy kẻ sát
nhân muốn gì? Nhà không bị lục lọi, không có gì bị
đảo lộn. Chẳng bị lấy trộm
vật gì. Tên kia chắc gây ra
tiếng động, ông già đi lấy
khẩu súng trong ngăn kéo
tủ hiện vẫn mở. Ông chưa kịp bắn. Sau đó hắn bỏ đi
vì mấy người lục lọi khắp
nhà chẳng thấy ai, không
một dấu vết chạy trốn.
Như vậy hắn có chìa khoá.
Đon Carudơ suy đi nghĩ lại những tình huống, không
thấy giả thuyết nào khác
vấn đề có chìa khoá. Chắc
hắn không biết ông Baoman
đang có người chờ ăn tối,
hy vọng còn lâu mới bị phát hiện; không rõ vì động
cơ gì. - Ông bà già có kẻ
thù không? - Ông cũng biết
là không... Ông biết rõ họ
như chúng tôi. Họ đáng kính
phục đến thế kia mà. Bà Baoman khốn khổ nằm
trong bệnh viện không biết
gì cả. Cảnh sát tìm tòi
xong, thi thể ông Baoman
được đưa đi. Ngôi nhà được
đóng kín cùng điều bí mật của nó. Vì có một điều bí
mật. Cái gì đó mà những
người cảnh sát không thấy.
Mặc dù xảy ra rất gần...
Ngôi nhà xanh im lìm, mọi
cửa kính đóng dưới mưa thu. ở nhà mình, bà hàng xóm
đoán vậy sau bức màn cây
và nói với chồng: - Một
ngôi nhà bất hạnh. - Nào,
bà, vấn đề trộm cướp thôi.
- Tôi nói với ông là ngôi nhà bất hạnh, lởn vởn như có
bóng ma... - Được rồi, chỉ
còn thiếu điều đó... Bà say
sưa khen ngôi nhà như mọi
người trong khu phố... và
bây giờ lại là ngôi nhà có ma? Bà có thấy ma không?
- Không... nhưng tôi có một
cảm giác kỳ cục, viên cảnh
sát cũng thế. Giống như có
một sự hiện diện vô hình. -
Tốt lắm, bà cứ thêm điều đó vào nỗi đau khổ của và
Macta Baoman thì sự việc
sẽ hoàn chỉnh. Bà Macta
khốn khổ đúng là bị cắm
chặt ở bệnh viện, thậm chí
không thể dự lễ tang chồn. Khi ra viện với đôi nạng, bà
đến mặc niệm trước mộ
chồng và quyết định đến
sống với bạn ít lâu ở
Caliphocnia. Để thoát khỏi
những kỷ niệm trước mắt và hạnh phúc đã mất trong
ngôi nhà xanh. Việc điều tra
không làm sáng tỏ được gì.
Vẫn hoàn toàn bí mật.
Macta không thể nói rõ gì
hơn với cảnh sát mà ngược lại. Bà không thấy ai có thể
có chìa khoá nhà mình. Nếu
có người nào đó có là họ
làm trộm. Giuliust có lẽ biết
nhưng ông chết rồi, không
nghĩa lý gì cả. Không có động cơ rõ ràng. Ngôi nhà
xanh bỏ trống trong nhiều
tháng. Mùa đông tới, khu
vườn âm u, cây cối trụi lá,
những gian phòng rộng rãi,
nội thất trang trí theo lối cổ không còn vang tiếng
cười của Macta, vắng tiếng
nhạc, nhảy múa, hạnh phúc.
Vào mùa xuân, bà Baoman
trở về nhà được nhiều
người chào hỏi. Ông bưu tá là người gặp bà trước tiên,
thái độ kín đáo nói với bà: -
Bà biết không... nhà bà... ai
cũng bảo là có ma... Macta
Baoman khẽ cười: - Ông nói
gì thế? Ma à? Nó ở đây suốt mùa đông, đúng
không? - Tôi nói để bà biết,
thế thôi... - Nhưng biết việc
gì? Ông nhận thấy có vấn
đề gì à? - Tôi thì không,
nhưng những người hàng xóm của bà có đấy... và cả
những người khác nữa... rồi
bà sẽ thấy... Macta Baoman
không tin vào ma quỷ. Bà
vững vàng về thể chất và
tinh thần. Sự goá bụa là một bất hạnh lớn nhưng bà
can đảm chịu đựng, lạc
quan, yêu cuộc sống như
xưa nay và mê say hạnh
phúc. Bà sống một mình với
kỷ niệm về Giuliust và những năm qua... vì số phận
đã định thế. Đừng ai nói vớ
bà về ma quỷ. Đúng ra là
cảnh sát phải tìm ra kẻ
giết người. Bà hàng xóm
đến thăm. Lại nói về ma. -Bà cũng nghĩ thế à? -
Không, tôi cũng như bà,
không tin vào ma quỷ; đêm
đó tôi có cảm giác không
hay nhưng hết rồi. Chính
bọn trẻ con phao đồn chuyện này. Chúng bảo
nhiều lần thấy có ánh đè
trong đêm, ở cửa sổ gác
xép. Cảnh sát cũng đi tuần
vài lần nhưng có lẽ chỉ là
ảo giác... Chắc đèn ô tô... có điên chúng mới để đèn trên
đó... Một ông hàng xóm
khác sang chào bà Baoman
và cũng nói chuyện về ma.
- Bà biết không, chắc vợ
tôi không nói với bà vì sợ là kỳ cục nhưng một hôm đi
qua nhà bà, bà ấy thấy một
chuyện lạ. Lúc đó bà chưa
về. Một buổi sáng, đi chợ
về qua nhà bà, bà ấy rú lên
chạy về tận nhà như người điên, nói rằng thấy một
khuôn mặt nhìn ra từ cửa
sổ gác xép. Một khuôn mặt
trắng bệch như bóng ma
của ông nhà. Bà ấy rất xúc
động nhưng bây giờ công nhận có thể là nạn nhân
của ám ảnh. Với những
chuyện nhà có ma người ta
kể từ trước đến nay, bà đã
cho lục soát hết mọi xó
xỉnh của ngôi nhà chưa? - Tôi không chỉ cho lục soát
mà còn quét dọn. Tôi thuê
một bà giúp việc làm; ở tuổi
này tự mình không chăm lo
được nữa, nhà rộng quá. Tôi
đoán chắc với ông chẳng thấy con ma nào trên gác
xép hoặc phía sau tủ. Bà
Baoman bỏ qua điều bí mật,
không để ý đến nữa. Cũng
như những nhân viên cảnh
sát vậy. Bà tỏ ra vô cảm về không khí kỳ lạ quanh
mình. Thực ra có nhiều
nguyên nhân. Có lẽ vì bà
nguyên là giáo viên về địa
lý, tính tình lạc quan, có
đầu óc thực tế và những chiếc bàn quay ma quỷ hoặc
có sự hiện hình không xâm
nhập vào thế giới trí thức.
Macta chỉ sợ những việc
thật. Như ngã trên cầu
thang chẳng hạn. Chân bà không vững vàng và bà
tránh lên xuống cầu thang.
Một vấn đề nữa là dù
không muốn chấp nhận, bà
đã thành nặng tai theo thời
gian. Trở ngại đó không làm bà băn khoăn nhưng làm bà
ngạc nhiên về những ý
nghĩ của bà giúp việc: -
Thưa bà... tôi nghe có tiếng
bước chân trên kia... Cô gái
Mêhicô trẻ, búi tóc đen như mực, ở một phòng trên
tầng gác từ khi đến giúp
việc bà Baoman. Như mọi
người Mêhicô, cô quan niệm
về cái chết rất đặc biệt.
Thần chết hiện diện hàng ngày trong cuộc sống,
những người chết luôn ở
bên ta và bóng ma ông
Giuliút Baoman đối với cô
hoàn toàn có thể có thật. -
Thưa bà... Bà có nghe thấy không? - Không, gì thế nữa
cô? - Như có ai bước đi
trên kia... Tôi nghe tiếng
động... - Nào, cô bạn, cô
tưởng tượng ra đấy. Và bà
Baoman lại tiếp tục đọc sách, đan áo hoặc nghe
nhạc cổ điển. Ban đêm, gió
lay động màn cây in bóng
cành lá lên tường nhà.
Những chiếc đèn pha ô tô
đôi khi hắt mạnh ánh sáng vào những gian phòng rộng
và đồ đạc cũ trong nhà như
xuất hiện từ bóng tối, có
những hình thù lạ và dễ sợ.
Cô giúp việc lắng nghe,
thấy, cảm nhận, phỏng đoán và một hôm tuyên bố:
- Thưa bà, nhà có ma, tôi,
tôi không ở lại được... Đến
văn phòng thu xếp việc
làm, bà Baoman xin một
người mới với đề nghị cụ thể: - Tôi không đảng phái
cũng không phân biệt chủng
tộc chút nào nhưng tôi
không thích người giúp việc
Mêhicô. Họ rất mê tín, ông
hiểu chứ? Không thật sự hiểu vì chẳng quan trọng
gì, văn phòng tìm việc giới
thiệu cho bà Baoman một
quản gia chủng tộc Anglô-
Xaxông, người vạm vỡ, quả
quyết, chân to, tóc ngắn, có thói quen của những
người đứng tuổi và làm cả
một đoàn ma sợ hãi. Không
vì thế mà chỉ sau một
tuần làm việc bà rời bỏ bà
Baoman. Bà đến cơ quan cảnh sát. - Nhiệm vụ tôi là
phải nói. Tôi thấy một con
ma. Nó đi dưới chân cầu
thang lên gác. Một loại thật
gớm guốc. Tôi kêu lên và nó
biến mất. Viên cảnh sát ghi lời tố cáo, bỡn cợt hỏi:- Bà
kiện nó chứ? Nhưng Đon
Carudơ, người trước đây
một năm được cử điều tra
về cái chết Giulíut Baoman,
chú ý lắng nghe. Ông đến thăm bà Baoman. - Ông nói
có một con ma gớm guốc ở
nhà tôi à? Ông đội trưởng...
Ông cũng tin có ma quỷ ư...
Cái chết của ông nhà tôi
không được làm sáng tỏ, tôi không trách nhưng tôi nghĩ
điều bí ẩn đó gây nên
những ý nghĩ ngu ngốc
trong khu. Tôi đơn độc đã
khá vất vả rồi và nếu
những chuyện đồn đại đó cứ tiếp tục, tôi chẳng biết tìm
ai giúp đỡ nữa... - Không
phải thế, bà Baoman... Tôi
muốn biết bà có chắc chắn
không có ai thỉnh thoảng
lẻn vào nhà mà bà không biết không? - Tôi đã nói đi
nói lại, ông đội trưởng. Tôi
chưa bao giờ thấy có gì
không bình thường. Nếu có
ai ở trong nhà thì tôi phải
biết chứ... - Có vấn đề hôm xảy ra vụ án mạng mọi cửa
ngõ đều chốt bên trong...
Điều đó lúc nào cũng làm tôi
day dứt. - Người của các
ông lúc đó đã lục soát từ
trên xuống dưới rồi còn gì... - Tôi biết... Bà có cho phép
tôi tìm kiếm lại không? -
Nếu ông thấy cần và nếu
việc làm đó chấm dứt được
những lời đồn đại ngu ngốc...
tôi đồng ý. Với điều kiện người của ông đừng làm hư
hỏng gì. Tôi đang chờ một
bà quản gia mới mấy ngày
nữa sẽ tới, các ông chờ cho
đến khi bà ấy tới để sắp
xếp lại trật tự sau khi các ông lục soát. Đon Carudơ
nhận lời. Hẹn trong tám
ngày nữa. Ý nghĩ của viên
cảnh sát cũng có lý phần
nào. Bà già nặng tai, một
tên vô lại có thể lợi dụng ngôi nhà rộng rãi này mà ẩn
náu dễ dàng. Vào ra bà ta
không biết. Có thể là kẻ
giết người... Có thể chỉ là
người lợi dụng ngôi nhà
trống sau vụ sát hại... vì những chuyện ma quỷ nảy
sinh trong lúc bà Baoman đi
vắng. Nhưng hôm sau, sự
việc đến nhanh hơn. Đon
đang ngồi trong văn phòng,
một nhân viên chạy gấp vào: - Thủ trưởng, bào
Baoman gọi điện thoại. Bà
lại ngã cầu thang! Bà lê
được đến bên máy. Người ta
đã cho xe cấp cứu đến;
trong lúc chờ đợi bà ấy muốn nói chuyện với ông.
Đon cầm máy, nghe giọng
nói hổn hển của bà Baoman:
- Tôi nghĩ ông có lý, ông
đội trưởng... Tôi bắt đầu
thấy sợ... có điều gì đó... đề nghị ông tới cho... - Tôi sẽ
tới! Mấy phút sau viên cảnh
sát đã đến bên cạnh bà già
khốn khổ. Nằm dài trên
cáng, nhăn mặt đau đớn, bà
giải thích: - Vẫn cái chân ấy... Ông biết lần trước chứ,
tôi nhớ... rất lạ về cách bị
ngã... tôi đã nói với ông nhà
tôi... như có ai ngoặc chân
tôi, hoặc ngăn cản tôi đặt
chân xuống bậc thang... cảm giác kỳ lạ, nhưng khi ngã
lăn qua nhiều bậc thì quên
hết mọi chuyện. - Lần này
thì thế nào, bào Baoman, bà
có thấy ai không? - Không,
ông đội trưởng ạ, nhưng trước khi ngã tôi cảm thấy
có cái gì đó đụng vào mắt
cá... - Lúc ấy bà ở đâu, trên
gác, gác xép hay tầng
trệt? Hỏi câu đó khi đang
đứng ở sân trước, Đon máy móc nhìn lên bao lơn và
ngây người. Ông vừa thấy
một bàn tay trắng, gầy,
thong thả nâng tấm màn
cửa sổ trên tầng và bỏ
nhanh xuống. Bây giờ thì ông chắc chắn. Mẹ kiếp, có
kẻ nào đó ở trong nhà này,
sống ở đó, ẩn náu, mà bà
Macta Baoman không biết. -
Có gì vậy, ông đội trưởng,
ông thấy gì à? - Không, không, nhưng nếu có người
nào đó chúng ta sẽ tìm ra,
bà đừng lo... Chẳng làm bà
già lo lắng thêm vô ích,
nhất là bác sỹ bảo lần trật
khớp này nặng hơn, bà ấy chắc chắn không bao giờ đi
lại bình thường được. Ông ra
hiệu cho xe cấp cứu đi và
chạy ra cổng ra lệnh cho
một nhân viên đi theo ông.
- Trên kia có một tên. Anh cẩn thận, chắc hắn nguy
hiểm đấy. Hai người rút
súng ra. Nhân viên đi với
ông người to cao, một mét
chín mươi, hàng ngày vẫn
luyện tập ở câu lạc bộ thể thao của cơ quan. Không
phải tình cờ mà Đon chỉ
định anh. Họ cùng leo
nhanh lên cầu thang, lục
tìm khắp căn phòng rồi đi
vào một hành lang tối sát gác xép, có vẻ không dẫn
đi đến đâu. Bỗng Đon nhận
thấy phía cuối cùng có một
tấm ván che như một cánh
cửa nhỏ, động đậy... Một
bàn chân trần xuất hiện, mò tìm thanh thứ nhất một
chiếc thang dây. Đon ra
hiệu cho nhân viên, lặng lẽ...
Anh này lại gần, hơi chúi
chân lấy đà rồi dơ hai tay
nhảy tới chộp lấy bàn chân đang lơ lửng.Trong bóng
tối, Đon không trông rõ lắm
nhưng hình như anh nhân
viên đã nắm được, vì anh
để treo người một lúc rồi
rống lên đau đớn. Tên kia chắc đã đánh mạnh vào tay
anh, anh phải thả ra và rơi
nặng nề xuống đất. - Trời,
anh sao vậy? Đon leo ngay
lên thang dây, đến mấy nấc
trên cao thì bắt kịp chân kẻ kia. Ông kéo mạnh và
tất cả nhào xuống kêu lên
đau đớn. Ông, thang dây, kẻ
kia mà ông vẫn nắm chặt
chân. Trên sàn gác xép,
một bóng người cựa quậy yếu ớt. Hai người cảnh sát
cúi nhìn. Đó là một con ma.
Khuôn mặt như xác chết,
râu ria xồm xoàm, tóc dài,
đôi mắt điên dại, thân hình
gầy gò, quần áo tả tơi để lộ chân tay khẳng khiu. Con
ma không cựa quậy nữa,
nhắm mắt bất tỉnh. Trong
lúc chờ xe cấp cứu, Đon
quan sát chỗ ẩn của con
ma. Một góc nhỏ sát mái, mạng nhện giăng đầy, chỉ
có thể ngồi hoặc nằm. Có
một chỗ như giường nằm, là
chăn đệm cũ chất lại, cùng
những hộp bìa dày, chai
không. Diện tích toàn bộ dài không đến một mét rưỡi và
rộng nửa chừng ấy. Có tấm
ván mỏng có lẽ để đấy đã
lâu che kín hốc chuột đó lên
đến mái nhà. Trước đây
chắc có lỗ cửa nhưng đã bị bịt lại. Con ma ẩn náu
trong ấy. Đã từ lâu nhưng
không ai để ý đến tấm ván
vì quá nhỏ, người ta không
hình dung có người sau đó.
Hơn nữa ván cùng màu với gác xép, đầy bụi và có vẻ
được đóng chặt vào tường.
Một nhân viên cảnh sát nhớ
lại: - Thủ trưởng, lần đầu
khi lục soát ngôi nhà, hôm
xảy ra án mạng, tôi đã thấy chỗ này. Tôi gõ vào
tấm ván, thử kéo ra không
được... không ngờ... Không ai
ngờ, bà Baoman càng ít chú
ý hơn. Hốc này đã bịt lại
từ lâu rồi. Con ma được bác sỹ khám; ông thấy không có
trường hợp nào tương tự. -
Anh ta trong tình trạng quá
yếu, do thiếu ăn uống và
chắc có vấn đề ở phổi. Cú
rơi xuống sàn làm anh ta hầu như hết sống. Nếu tỉnh
lại tôi nghĩ còn lâu ông mới
thẩm vấn được. Đon cho
chụp mấy tấm ảnh nơi ẩn
náu của con ma và bản
thân con ma, đưa lại cho bà Baoman xem. Bà Baoman suy
nghĩ... Khuôn mặt hốc hác,
đầy râu, gần như chết rồi,
không nói lên điều gì với
bà... hay là... nhưng... - Trời
ơi, không thể... giống như là Giăcxơn. Êđua Giăcxơn...
chúng tôi biết anh ta lúc
mười tám tuổi... - Ông bà có
quan hệ với anh ta như thế
nào? - Anh ta chơi đàn,
chúng tôi thích anh đến chơi. Anh ở xa đến đây vì
tình trạng sức khoẻ, bệnh
lai, cần không khí miền núi...
Một hôm chúng tôi không
nghe nói về anh nữa. Anh
biến mất, chúng tôi nghĩ đã về với mẹ. Mấy năm sau
chúng tôi gặp anh, đã trở
thành đại diện thương mại,
bảo vẫn khoẻ. Anh lại biến
mất trong hai năm... và khi
chúng tôi gặp lại, anh đã thay đổi ghê ghớm. Khoảng
ba mươi lăm tuổi mà có vẻ
như đã năm mươi. Gầy còm,
thất vọng, cô đơn... bà mẹ
chết rồi. Như chúng tôi hiểu,
bà ấy bị người chồng thứ hai lột sạch, chàng trai
không còn một xu. Chúng
tôi muốn giúp đỡ anh ta từ
chối. Chúng tôi vẫn yêu mến
anh ấy, việc từ chối đó làm
chúng tôi ngạc nhiên. Rồi anh bỏ đi, chúng tôi không
bao giờ gặp lại anh ta nữa.
Tuy vậy, có đấy, họ vẫn
gặp lại nhưng không biết
thôi. Mấy ngày sau báo chí
đăng những lời khai của Êđua Giăcxơn với cảnh sát.
Anh ta được mệnh danh
"Người trên tầng cao".
"Người trên tầng cao" ghét
ông bà Baoman vì họ sống
hạnh phúc. Chỉ có thế. Anh ta có định kiến về hạnh
phúc không chịu nổi ấy,
nghĩ mình là một con người
bị đày đoạ, không yêu
thương, bị mọi người bỏ
rơi. Một tình trạng điên cuồng thực sự. Nếu người
ta nói nhỏ gần anh, anh cho
là nói xấu anh, nhìn anh
cười là người ta chế nhạo
anh. Người ta quên chào anh
vì anh đáng ghét; nếu bắt tay anh thì chỉ vì thương
hại. Thể bệnh tâm thần này
thật đáng sợ. Vì chủ thể
nghĩ mình sáng suốt, có ý
thức, chủ động. Hơi có một
cử chỉ hoặc lời nói của người khác thì cho là công
kích mình. Êđua Giăcxơn bị
hấp dẫn bởi hạnh phúc của
ông bà Baoman và ngôi nhà
xanh đồng thời căm ghét
hạnh phúc đó. Đấy là một loại tự kỷ ám sự suy sụp.
Nguồn gốc ám ảnh bị đầy
đoạ từ chỗ đó. Lần cuối
cùng đến thăm ông bà
Baoman, anh ta nhận thấy
nguồn dự trữ thực phẩm bao giờ cũng đầy đủ. Về
hưu, đã có tuổi, Giulíut và
Macta rất ít đi mua bán.
Trong bếp, chiếc tủ lạnh
luôn đầy cũng dễ lấy để
dùng, cũng như chiếc bàn của ông Baoman bao giờ
cũng có một ít tiền mặt.
Êđua bèn quyết định lẩn
tránh mọi người, đến sống
ở nhà họ, bí mật, trong gác
xép. Anh ta sống ở đó nhiều tuần, nhiều tháng trong góc
nhỏ kín đáo dưới mái nhà
mặc nắng hạ rét đông.
Từng lúc anh ta đi ăn, lấy
trộm thức ăn trong tủ lạnh,
mượn một cuốn sách, ngọn đèn chạy pin. Cũng từng lúc,
nhất là sau cái chết của
Giulíut, anh nhìn qua cửa sổ
trong ngôi nhà trống vắng...
với khuôn mặt ma, trong
một giây rồi chẳng làm gì nữa. Một hôm căm ghét
bệnh hoạn anh tuồn một
chiếc gậy vào giữa chân bà
Baoman và bậc thang gác.
Khi bà đi bệnh viện, ở nhà
một mình với Giulíut trong ngôi nhà hạnh phúc, anh ta
bỗng nhận ra mình có thể
phá tan hạnh phúc đó. Anh
theo Giulíut, im lặng như
chiếc bóng, từ phòng này
đến phòng kia, tạm thời rời bỏ cảnh cô đơn. Nhưng như
vậy, một hôm anh gặp nguy
hiểm. Giulíut thấy anh,
không nhận ra anh, rất sợ
chạy đi lấy súng. Êđua đánh
ông bằng que sắt thông lò. Ông chết ngay. Rồi anh tiếp
tục sống như một con
chuột trong ngôi nhà hạnh
phúc, bà Baoman trở về,
lòng căm ghét lại dấy lên,
càng độc địa hơn. Người đàn bà này muốn tiếp tục
sống, can đảm vượt lên sự
goá bụa, vẫn luôn nghe
nhạc, đọc sách, thêu đan,
cười nói... Thật không thể
chịu được. Bà ta không có quyền chế nhạo anh. Bà
vẫn đầy đoạ anh vì hạnh
phúc tìm lại đó. Thế là anh
lại chơi trò ngáng ở cầu
thang. Nhưng lần này... chiếc
gậy dấu không kỹ lắm. Bà Baoman cảm thấy con ma
làm hại mình... Giới báo chí
say sưa về "Người trên
tầng cao" được toà án xem
là tỉnh táo... Có nghĩa là ý
thức được hành động của mình khi thực hiện. Nhưng
khái niệm tỉnh táo có thể
đến bất chợt, lúc có lúc
không.