"... Poe đã viết một bài thơ
nổi tiếng mà tất cả chúng
ta đều biết, nổi tiếng quá
đáng bởi đó không phải là
một trong những bài thơ
hay nhất của ông: bài Con quạ. Sau đó, trong một
cuộc nói chuyện ở Boston,
ông đã giải thích quá trình
sáng tác bài thơ. Đầu tiên,
ông nhận thấy vai trò quan
trọng của điệp khúc, sau đó ông nghĩ đến ngữ âm của
tiếng Anh. Ông khẳng định
rằng hai âm dễ ngân vang
và có hiệu quả nhất của
tiếng Anh là “o” và “r”.
Thế là ngay lập tức ông tìm ra cụm từ never more,
"không bao giờ nữa". Khởi
đầu chỉ có vậy. Sau đó
xuất hiện một vấn đề: phải
làm sao để hợp lý hóa việc
nhắc đi nhắc lại hai từ này, bởi vì nói chung nếu để một
người làm việc đó thì không
được tự nhiên lắm. Ông tự
nhủ không được quá lý trí,
và điều đó dẫn ông tới ý
tưởng về một con chim biết nói. Ông đã nghĩ tới vẹt,
nhưng loài chim này không
có được những phẩm chất
mà thơ ca đòi hỏi. Thế là
ông chọn một con quạ. Nói
một cách trung thực, khi đó ông đang đọc cuốn tiểu
thuyết của Charles Dickens,
Barnaby Rudge, trong đó có
chuyện một con quạ. Thế là
ông có một con quạ tên là
Never more và nó không ngừng nhắc lại tên mình. Đó
là tất cả những gì Edgar
Poe có lúc ban đầu. Sau đó
ông tự nhủ: sự kiện nào
đáng buồn nhất, đau khổ
nhất? Chắc chắn đó là cái chết của một cô gái đẹp. Ai
sẽ là người đau khổ nhất
khi nghe cái tin ấy? Dĩ
nhiên, đó là người yêu của
nàng. Thế là ông nghĩ tới
một chàng trai vừa mất người yêu, người yêu có tên
là Leonore, để vần với
Never more. Chàng trai khi
đó đang ở đâu? Poe suy
nghĩ: con quạ màu đen. Màu
đen nổi bật nhất trên nền màu gì? Màu trắng. Vậy ta
hãy chọn màu trắng của
bức tượng, một bức tượng
của ai nhỉ? Ta hãy chọn
bức tượng của Pallas
Athènes. Bức tượng đặt ở đâu? Trong thư viện. Edgar
Poe giải thích rằng để bài
thơ được thống nhất, cần
phải chọn một nơi kín đáo.
Vậy là ông đặt bức tượng
Minerve trong thư viện. Chàng trai ngồi một mình
trong đó, giữa những quyển
sách của chàng và thương
khóc người yêu đã chết, so
lovesick more. Sau đó con
quạ bay vào. Tại sao con quạ lại bay vào? Như ta
đều biết, thư viện là một
nơi yên tĩnh, vậy cần phải
đưa ra một cái gì đó trái
ngược: Edgar Poe tưởng
tượng ra một trận bão. Đêm giông bão đã ném con
quạ vào thư viện. Chàng
trai hỏi tên con quạ, nó kêu
lên: never more. Chàng trai
đau khổ vật vã, tiếp tục
hỏi nhưng nó trả lời tất cả những câu hỏi đó bằng cách
lặp đi lặp lại: never more,
never more, never more,
không bao giờ nữa. Nhưng
chàng trai vẫn hỏi, hỏi mãi.
Cuối cùng chàng trai nói với con quạ điều mà ta có thể
coi là ẩn dụ đầu tiên của
bài thơ: Hãy tống khứ cái
mỏ của mày ra khỏi trái tim
tao rồi cút ra khỏi cửa. Con
quạ, (đã trở thành biểu tượng của ký ức, một ký ức
- đáng buồn thay - bất tử)
, con quạ ấy đáp: never
more. Chàng trai hiểu rằng
chàng đã bị kết án chung
thân, rằng trong suốt quãng đời còn lại, quãng đời
kỳ ảo còn lại, chàng sẽ phải
chuyện trò với con quạ, con
quạ chỉ biết khẳng định
một điều duy nhất: không
bao giờ nữa. Chàng sẽ suốt đời phải đặt cho nó những
câu hỏi mà chàng đã biết
trước câu trả lời. Nói cách
khác, Edgar Poe muốn chúng
ta tin rằng ông đã viết một
bài thơ lý trí. Nhưng chỉ cần nghiên cứu chủ đề của
bài thơ kỹ hơn một chút,
chúng ta sẽ nhận thấy rằng
điều đó là giả tạo. Edgar
Poe hoàn toàn có thể thực
hiện được ý tưởng sáng tác một cách duy lý của mình
nếu chọn một gã dở hơi
hay một người say rượu
thay cho con quạ. Khi đó
chúng ta sẽ có một bài thơ
khác hẳn và khó giải thích hơn." (Jorge Luis Borges, Về
truyện trinh thám, Ngô Tự
Lập dịch) Một đêm nao lúc
giữa đêm buồn thảm, tôi
đương ngẫm ngợi mệt lả và
rã rời Trước cuốn sách chẳng còn ai nhớ đến khá lạ
kỳ và xưa cũ Tôi đương gà
gật gần như thiếp đi, đột
nhiên có tiếng đập vào cửa
Như có ai nhẹ nhàng gõ cửa
- gõ vào cửa buồng tôi “Có khách nào”, tôi khẽ nói,
“đập vào cửa buồng” - Chỉ
vậy thôi chẳng có gì hơn
nữa À, tôi nhớ rõ, một đêm
tháng chạp lạnh lẽo Mỗi
thanh củi chết dần tro than, đổ hồn bóng của nó
lên sàn Tôi da diết muốn
trời mau sáng; - đã hoài
công mượn chồng sách
mong ngơi ngớt cơn sầu -
nỗi sầu nàng Lenore đã mất Người trinh nữ rạng ngời
hiếm có, được thiên thần
gọi tên Lenore Giờ tên nàng
chẳng còn trên đời nữa Và
tiếng lụa xột xoạt mơ hồ
buồn bã của từng tấm rèm hồng tía Làm tôi rùng mình
- tràn ngập hồn tôi nỗi
khiếp sợ lạ kỳ chưa cảm
thấy bao giờ Để bình tâm
tôi lại tự nhủ mình, “Có vị
khách nào đứng ngoài cửa nài nỉ xin vào Một vị
khách muộn màng nào đó,
đứng ngoài cửa nài nỉ xin
vào” - Thế thôi, chẳng có
gì hơn nữa Lúc này tôi đã
vững tâm hơn, chẳng còn e ngại nữa “Quý ông hay quý
bà”, tôi bảo,” thực lòng xin
thứ lỗi Quả tình tôi đương
thiếp ngủ, mà quí vị lại gõ
quá nhẹ nhàng Lại đập quá
khẽ khàng - đập cửa buồng tôi Tôi không dám chắc là
đã nghe tiếng gõ” - và đây
tôi mở rộng cửa Ngoài đó
đêm đen chẳng có gì hơn
nữa Nhìn sâu vào đêm
thẳm, tôi đứng đó thật lâu ngạc nhiên, sợ hãi Lòng nghi
hoặc, mơ những giấc mơ
chẳng người trần nào từ
trước dám mơ Nhưng im
lặng vẫn hoàn im lặng, và
bóng đêm chẳng hé lộ điều gì Và chỉ một từ được thốt
lên, tiếng thì thầm
“Lenore!” Tiếng thì thầm
của chính tôi, và lầm rầm
nghe vọng lại “Lenore!” Chỉ
vậy thôi chẳng còn gì hơn nữa Trở lại phòng, cả hồn
tôi rực cháy Rồi tôi lại nghe
một tiếng đập, nghe chừng
còn mạnh hơn lần trước
“Chắc là”, tôi tự nhủ, “
chắc có gì động ngoài song cửa Hẵng thử xem ngoài ấy
có gì, rồi sẽ tìm ra bí ẩn
này Hẵng cứ bình tâm giây
lát, rồi sẽ tìm ra bí ẩn này
Là gió thôi, chẳng có gì hơn
nữa Tôi mở tung cánh cửa, con quạ vung vinh vỗ cánh
dồn dập bước vào Một con
quạ bệ vệ, trang nghiêm
của những ngày thiêng xưa
cũ Chẳng hề cung kính,
không lúc nào dừng lại hay đứng yên Mà với bộ mặt đài
các kiêu kỳ đậu vào phía
trên cánh cửa buồng tôi
Đậu trên tượng bán thân
thần Pallas, đặt ngay phía
trên cánh cửa buồng tôi Đậu chễm chệ thế thôi,
chẳng có gì hơn nữa Thế
rồi với bộ dạng trịnh trọng
nghiêm nghị Con chim màu
mun này làm tôi nguôi đi,
lòng đương sầu muộn chợt thấy buồn cười “Cho dù
đầu ngươi bị xén trụi lông
rồi”, tôi bảo, “nom ngươi
chẳng nỗi nào hèn nhát”
Con quạ khủng khiếp và cổ
lỗ bay lang thang thoát khỏi bờ Đêm Cho ta biết quí
danh ngươi nơi bờ Đêm địa
ngục Con quạ kêu lên:
“Không bao giờ nữa” Tôi
kinh ngạc xiết bao khi nghe
con chim lóng ngóng vụng về này phát thành lời rõ
thế Dù câu trả lời khá vô
nghĩa - vu vơ Bởi tôi cũng
như bạn không thể tin rằng
một ai trên đời này Có diễm
phúc được thấy loài chim hay thú nào trên cánh cửa
phòng mình Nó đậu ngay
trên pho tượng phía trên
cửa phòng mình Với một cái
tên: “Không bao giờ nữa”
Nhưng con quạ đơn độc đậu trên pho tượng câm lặng
ấy, Chỉ nói mỗi một từ,
dường như nó trút cạn cả
linh hồn vào đó Rồi nó
chẳng thốt thêm lời nào,
lặng yên không động cánh Cho đến khi tôi khẽ thì
thầm: “Bạn bè đã bỏ tôi
bay biến đi từ trước - Và
ngày mai nó lại sẽ bỏ tôi,
như bao hi vọng đã bay đi
từ trước Lời quạ kêu lên: “Không bao giờ nữa” Giật
mình trước sự yên tĩnh bị
phá vỡ bởi tiếng trả lời rất
đanh và rõ Tôi liền bảo: “
Chắc lời nó thốt ra là toàn
bộ vốn liếng ngôn từ Lấy từ một ông chủ bất hạnh
mà tai ương tàn khốc Bám
riết theo cho đến khi những
bài ca nước mắt Và những
lời ai điếu Niềm Hi Vọng hắn
than vãn u buồn trĩu nặng “Không bao giờ- không bao
giờ nữa” Con quạ cứ thế
làm tôi khuây khỏa, tâm
hồn đương buồn bã lại
muốn mỉm cười Tôi bèn lê
thẳng chiếc ghế nệm tới trước con chim, trước pho
tượng bán thân và cánh
cửa Rồi lún ngập trong
nhung đệm, tôi miên man
tưởng tượng Nghĩ ngợi con
chim quái gở này từ thủa xa xưa - Con chim ác
nghiệt, thô vụng, rùng rợn
buồn thảm và quái gở từ
thủa xa xưa Muốn nói gì
khi kêu lên “Không bao giờ
nữa” Đến lúc này, tôi đành ngồi ngẫm đoán, không nói
một lời với con chim kiêu
bạc Mà đôi mắt rực lửa
thiêu đốt tận tâm can Đến
lúc này, ngồi dần dà đoán
thêm, đầu nhẹ nhàng ngả trên nhung tím Nơi ánh đèn
hau háu trùm lên Nhưng
chiếc gối bọc nhung tím ánh
sáng đèn hau háu trùm lên
Nàng sẽ chẳng ôm ghì được
nữa - không bao giờ nữa Rồi tôi cảm thấy khí trời
đậm đặc hơn, đượm mùi
thơm từ một lư hương vô
hình Đung đưa trên tay
thiên thần mà tiếng chân
buông khẽ vang trên thảm “Thân làm tội đời”, tôi gào
lên,” Chúa đã ban cho ngươi
và qua những thiên thần
này đã gửi tới cho ngươi
niềm khuây khỏa - niềm
khuây khoả và rượu giải sầu để lãng quên Lenore.”
Hãy uống, hãy uống đi chút
rượu giải sầu này và quên
đi nàng Lenore đã mất Con
quạ kêu: “Không bao giờ
nữa” “Kẻ báo điềm kia!” - Tôi bảo. - “ Đồ tai ác kia!
Ngươi lặng thinh là chim hay
là quỷ”. Quỷ cám dỗ phái
ngươi đến, hay bão táp
quăng ngươi dạt vào bến
bờ này Vừa cô độc lại vừa nghênh ngang khinh bạc,
trên mảnh đất thần diệu
hoang vu này Trong ngôi
nhà ám ảnh rùng rợn ấy -
ta van ngươi hãy nói thật
ta nghe. Có chăng, liệu có chăng nhựa hương vùng
Gilead? Con quạ kêu lên:
“Không bao giờ nữa” “Kẻ
báo điềm kia!” - Tôi bảo. -
“Đồ tai ác kia! - Ngươi lặng
thinh. Là chim hay là quỷ”. Có trời cao nhìn xuống
chúng ta, có chúa mà hai ta
tôn thờ Xin hãy bảo cho
tâm hồn đang trĩu nặng
buồn thương, xem trên cõi
thiên đường xa xôi Nó có còn được siết vào lòng
người trinh nữ thánh thiện
được các thiên thần gọi tên
Lenore Siết chặt người trinh
nữ rạng ngời, hiếm có được
các thiên thần gọi tên Lenore Con quạ kêu lên:
“Không bao giờ nữa” “Là
chim hay là quỷ, lời ngươi
kia là dấu hiệu của chia lìa”.
- Tôi đứng phắt dậy gào
lên Hãy quay về với dông bão và bờ Đêm địa ngục
Đừng bỏ lại một chiếc lông
đen nào làm bằng cho lời
dối trá mà hồn ngươi vừa
phun ra Cút khỏi pho tượng
trên cánh cửa buồng ta Hãy rút mỏ ra khỏi tim ta và
mang hình hài ngươi biến
sau khung cửa Con quạ đáp
lời: “Không bao giờ nữa” Và
con quạ không hề động
cánh, vẫn im lìm, tọa im lìm Trên bức tượng xanh xao,
tượng Pallas bán thân bên
trên cánh cửa Và mắt ấy,
mắt quỷ đương mơ ngủ, Và
ánh đèn trên cao đổ bóng
Và hồn tôi khi nào thoát khỏi Bóng quạ đen dập
dềnh trên sàn Không thể
nào bay lên - không bao giờ
nữa!